Tiền lương là gì? Phân biệt giữa tiền lượng và tiền công
Mục lục
Blog nổi bật
Khái niệm về tiền lương
Trong nền kinh tế thị trường & sự hoạt động của thị trường sức lao động, sức lao động là hàng hoá do vậy tiền lương là giá bán của sức lao động. Khi phân tích về nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, nơi mà những quan hệ thị trường ách thống trị mọi quan hệ kinh tế, cộng đồng khác. C.Mác viết: “Tiền công Chưa hẳn giá trị hay giá cả của lao động mà chỉ là một cơ chế cải trang giá trị hay giá bán sức lao động”.
Tiền lương phản ánh nhiều quan hệ kinh tế, xã hội khác nhau. Tiền lương trước hết là số tiền mà người sử dụng lao động (mua sức lao động) trả cho tất cả những người lao động (người bán sức lao động). đó là quan hệ kinh tế của tiền lương. Mặt khác, do tính chất đặc biệt của loại hàng hoá sức lao động mà tiền lương không chỉ là thuần tuý là vấn đề kinh tế mà còn là một vấn đề xã hội rất quan trọng liên quan đến đời sống & trật tự xã hội. đó là quan hệ xã hội.
Trong quá trình chuyển động đặc biệt là trong hoạt động buôn bán, đối với chủ doanh nghiệp, tiền lương là một phần chi phí cấu thành chi phí chế tạo – kinh doanh. chính vì như thế tiền lương là thu nhập từ quá trình lao động của họ, phần thu nhập chủ yếu ớt đối với đại phần nhiều lao động trong cộng đồng, có tác động trực sau đó mức sống của họ. Phấn đấu nâng cao tiền lương là mục đích của hết thảy người lao động. Mục đích này tạo động lực để người lao động phát triển tài năng và kỹ năng lao động của bản thân.
Trong điều kiện của một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần như ở nước ta bây giờ, phạm trù tiền lương được biểu hiện chi tiết trong từng thành phần & khu vực kinh tế.
Trong thành phần kinh tế nhà nước và khu vực hành chính vì sự nghiệp, tiền lương là số tiền mà các doanh nghiệp quốc doanh, những cơ quan, tổ chức của nhà nước trả cho những người lao động theo chế độ & chính sách của nhà nước & được biểu hiện trong hệ thống lương thang lương, bảng lương do Nhà nước qui định.
Bản chất của tiền lương.
Tiền lương là giá bán sức lao động được hình thành trên cơ sở giá trị sức lao động thông qua sự thoả thuận giữa người có sức lao động & người sử dụng người lao động. Để bù đắp phần hao phí lao động đó họ cần phải có một lượng nhất định các vật phẩm tiêu dùng cho nhu cầu ăn, mặc, ở, đi lại… và người sử dụng lao động phải thỏa mãn nhu cầu đó đúng mức hao phí mà người lao động đã bỏ ra thông qua tiền lương. Do đó sức lao động hoàn toàn có thể là hàng hoá phụ thuộc sự bất định cung cầu & chất lượng hàng hoá sức lao động trên thị trường có nghĩa là chịu sự chi phối của các quy luật giá trị đóng vai trò chủ đạo. Tiền lương bảo đảm cho người lao động có thể tái sản xuất lao động để họ có thể tham gia vào quá trình tái chế tạo tiếp theo. chính vì như thế, tiền lương gồm có nhiều nhân tố cấu thành, để thu nhập là nguồn sống chủ yếu của bản thân mình người lao động và của mái ấm gia đình họ. Việc trả lương cho người lao động không chỉ căn cứ vào Hợp Đồng mà căn cứ vào kết quả chuyển động sản xuất kinh doanh của người lao động mà họ nhận được sau một thời gian lao động mà người ta bỏ ra.
Xem thêm: Tổng hợp những phim ma kinh dị Thái Lan hay nhất hiện nay
Tiền lương và tiền công
Tên gọi như thế nào chỉ là ước lệ, nhưng cần phải sử dụng thuật ngữ tiền lương & tiền công cho chính xác trong từng trường hợp. Thực tiễn cho thấy, thuật ngữ tiền lương không những dùng trong khu vực nhà nước, mà còn sử dụng liên tục trong doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Ngược lại, thuật ngữ tiền công không những sử dụng rộng trong thuê mướn lao động cộng đồng mà cả trong cơ quan, tổ chức, đơn vị của Nhà nước, trong doanh nghiệp khi phải thuê mướn lao động thực hiện một số vụ việc cụ thể trong thời gian ngắn, thanh khoản và hoàn thành giao dịch.
Xét về nội dung, tiền công là số tiền cộng gồm 1 số khoản hoặc tất cả những khoản (tiền lương, bảo hiểm cộng đồng, bảo hiểm y tế, bảo hộ lao động & nhiều chế độ khác, thậm chí cả công cụ và phương tiện lao động) được trả cho tất cả những người lao động theo thỏa thuận khi họ được thuê thực hiện một hoặc một số công việc, dịch vụ cụ thể trong không quá lâu (giờ, ngày, tuần), được thanh khoản khi xong xuôi giao dịch. Tiền công không nhờ vào cơ cấu tổ chức bộ máy, tổ chức làm việc của cơ quan, đơn vị; không dựa vào công nghệ sản xuất, buôn bán, tổ chức, phân công sức động, bồi dưỡng nâng cao kỹ năng tay nghề của doanh nghiệp; không có thang tiền công, bảng tiền công, mức tiền công, phụ cấp tiền công, xếp & nâng bậc tiền công, tiêu chuẩn cấp bậc kỹ thuật công nhân; tiêu chuẩn, chức danh viên chức chuyên môn, nghiệp vụ, đóng – hưởng những chế độ cầm buộc,…
Trong khi tiền lương là một chính sách hoàn chỉnh với cấu trúc tổ chức nghiêm ngặt, bao gồm: khối hệ thống chế độ tiền lương với thang, bảng, mức lương, phụ cấp lương; cơ chế tiền lương thao tác đêm tối, tiền lương làm thêm giờ; chế độ trả lương, cách trả lương,… & gắn kèm với tổ chức, cơ cấu chuyển động của từng cơ quan, đơn vị; gắn với tổ chức chế tạo, kinh doanh, tổ chức, phân công sức động của từng doanh nghiệp & quá trình thời gian làm việc của người lao động sau khi được tuyển dụng, bửa nhiệm hoặc làm việc theo Hợp Đồng lao động.
Bên cạnh đó, tiền lương còn hỗ trợ cơ sở để cán bộ, công chức, viên chức, người lao động & người sử dụng lao động thực hiện các nghĩa vụ tóm buộc khác, như: đóng – hưởng bảo hiểm xã hội, đóng – hưởng bảo hiểm y tế, trợ cấp mất việc làm, bồi thường vật chất,… Dù tên gọi là gì thì trong thực tế vẫn tồn tại hai dạng tiền lương và tiền công trong những dạng hình khác nhau.
Từ lý luận & thực tiễn, cũng giống như theo nội dung Điều 56 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) “Nhà nước quy định cơ chế tiền lương đối với những người làm công ăn lương” thì chỉ nên sử dụng thuật ngữ tiền lương trong các chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức (CB, CC, VC) và người lao động, không sử dụng thuật ngữ tiền công.
Nguồn: Tổng hợp