SPIN OFF là gì? Sự giống và khác nhau giữa Start UP và Spin Off

SPIN OFF là gì? Sự giống và khác nhau giữa Start UP và Spin Off

Startup  spinoff: Giống  khác

Trong bài đăng mới trên Tia Sáng, PGS. TS Tạ Hải Tùng, Giám đốc Trung tâm Quốc tế Nghiên cứu , tăng trưởng Công nghệ định vị sử dụng vệ tinh (NAVIS) thuộc đại học Bách Khoa Hà Nội, cho biết, hiện tạikhởi sự công ty từ các kết quả nghiên cứu của trường học thực sự có thể được chia thành hai mô hình: khởi nghiệp, spinoff.

Dù còn có nhiều định nghĩa khác nhau, nhưng theo cách hiểu thông dụng [1], với công ty startupnhững đồng chủ sở hữu công ty thường hay đến từ bên ngoài trường học Đặc biệt họ không sở hữu công nghệ bắt đầu từ trường ĐH, mà tiếp xúc với nó thông qua hoạt động chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ (licensing).

Trong lúc đónếu trường học cùng theo với những nhà khoa học đang sở hữu bằng sáng chế về công nghệ mà muốn mình tự tạo  tăng trưởng công ty (“tự khởi nghiệp”) để thương Mại hóa thành quả nghiên cứu khoa học thì ta có mô hình công ty “spinoff”.

Tại Việt Namhình thức xây dựng sự nghiệp rất phổ biến hiện trong còn cách thức spinoff chưa được quan tâmtăng trưởng đúng mức, cho dù đã tồn tại những hình thức giúp đỡ và hỗ trợ cho những làm việc này, như: công ty giúp đỡ và hỗ trợ chuyển giao công nghệ, vườn ươm, hay không gian hoạt động chung trong một số đại học (ĐHBK Hà Nội, ĐHBK Tp Hồ Chí Minh…), hay không những mà còn hành lang pháp lý cho việc ra đời những doanh nghiệp khoa học công nghệ (KHCN) tại trường ĐH đã được đề cập rõ nét trong Dự thảo Luật Giáo dục đại học dự kiến thông qua trong năm nay.

Nút thắt nằm ở đâu?

Theo PGS.TS Tạ Hải Tùng, từ nhiều năm qua, một vài trường đại học truyền thống trong VN như: ĐH Bách khoa Hà Nội, ĐH Khoa học Tự nhiên (ĐH quốc gia Hà Nội), đại học xây dựngĐH Mỏ-Địa chất… đã thành lập các công ty với mục đích là hỗ trợ làm việc chuyển giao công nghệ.

Mặc dù thếlĩnh vực hoạt động của những doanh nghiệp này chủ yếu là trao đổi, giám sát, kiểm định, cung cấp dịch vụ trainingphát triển nguồn nhân lực đến trực tiếp sản xuất, buôn bán, thi công, trong khi hoạt động có ảnh hưởng là chuyển giao công nghệ từ thành quả nghiên cứu khoa học của chính đơn vị còn rất hạn chế. Đây chính là gian khó cơ bản khi triển khai các hoạt động khởi nghiệp sáng xây dựng – thành lập spinoff – trong trường đại học.

Thêm nữalãnh đạo những trường luôn Nhìn nhận danh tiếng của đơn vị mình chiếm tỷ trọng lớn trong sự thành đạt của doanh nghiệp họ luôn ước muốn “danh tiếng” – thứ tài sản vô hình đấy được quy đổi ra một tỷ lệ sở hữu lớn trong công ty spinoff, như hiện trong con số này có thể lên tới hàng chục %.

Về bản chất, duy trì mật độ sở hữu lớn là sự mong muốn đạt được phần lợi tức cao khi spinoff thành đạt (sản xuất/kinh doanh có lãi, IPO, hoặc mua bán/sáp nhập doanh nghiệp). mặc dù vậy, với công ty spinoff mật độ này không thể cao.

Thực tế, danh mục ở Úc [2] cho chúng ta thấy rằng, trung bình tỷ suất hoàn vốn từ người đầu tư cho R&D từ hoạt động licensing của những trường học chỉ ở mức 3trong số đó chỉ có 10% những trường có tỷ suất dương, , mỗi trường tại nhóm này cũng chỉ thu được phí licensing của một số lượng rất hạn chế tại tổng số những phát minh mà mình sở hữu.

Trong khi đónếu như các trường học chiếm tỷ lệ sở hữu lớn (thậm chí chi phối) thì sẽ thực hiện giảm sự cuốn hút của công ty với các nhà đầu tưcác người thực sự “đổ xăng” cho cỗ máy spinoff có thể chạy được bởi giá trị nhân sự quản trị công ty đảm bảo không hề là một điểm mạnh của trường học. Chưa kể, tính nhiệm kỳ trong những ra quyết định là một rào cản không nhỏ cho sự phát triển bền vững của spinoff.

Thực tế khai triển trên toàn cầu cũng cho thấy rằng mật độ thành công của những spinoff sẽ càng giảm nếu như tỷ lệ sở hữu của trường đại học càng lớn [3].

Không chỉ có vậynhững kết quả nghiên cứu khoa học thông thường tồn tại ở dạng cách thức bản chế thử (prototype), vì thế không hấp dẫn những người đầu tưđặc biệt là các nhà đầu tư để tâm nhiều đến lời so với vốn thời gian ngắn.

Cách đây không lâu, Đài Truyền hình VN có phát sóng chương trình “Thương vụ bạc tỷ”, trong chương trình này, chúng ta hàng ngày nghe thấy những người đầu tư yêu cầu nhà khởi nghiệp phải chắc rằng sự an toàn cho khoản đầu tư của bản thânthậm chí họ còn đòi hỏi được cầm cố tài sản.

Chính do đó, trông đợi vào các nhà đầu tư ngoài xã hội tại các lĩnh vực có thành tố hiểm họa cao như đầu tư công nghệ (đặc biệt là công nghệ mới) là tương đối khó khả thi tại điều kiện VN hiện tại.

Theo Báo Tia sáng

Startup  spinoff: Giống  khác

Trong bài đăng mới trên Tia Sáng, PGS. TS Tạ Hải Tùng, Giám đốc Trung tâm Quốc tế Nghiên cứu , tăng trưởng Công nghệ định vị sử dụng vệ tinh (NAVIS) thuộc đại học Bách Khoa Hà Nội, cho biết, hiện tạikhởi sự công ty từ các kết quả nghiên cứu của trường học thực sự có thể được chia thành hai mô hình: khởi nghiệp, spinoff.

Dù còn có nhiều định nghĩa khác nhau, nhưng theo cách hiểu thông dụng [1], với công ty startupnhững đồng chủ sở hữu công ty thường hay đến từ bên ngoài trường học Đặc biệt họ không sở hữu công nghệ bắt đầu từ trường ĐH, mà tiếp xúc với nó thông qua hoạt động chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ (licensing).

Trong lúc đónếu trường học cùng theo với những nhà khoa học đang sở hữu bằng sáng chế về công nghệ mà muốn mình tự tạo  tăng trưởng công ty (“tự khởi nghiệp”) để thương Mại hóa thành quả nghiên cứu khoa học thì ta có mô hình công ty “spinoff”.

Tại Việt Namhình thức xây dựng sự nghiệp rất phổ biến hiện trong còn cách thức spinoff chưa được quan tâmtăng trưởng đúng mức, cho dù đã tồn tại những hình thức giúp đỡ và hỗ trợ cho những làm việc này, như: công ty giúp đỡ và hỗ trợ chuyển giao công nghệ, vườn ươm, hay không gian hoạt động chung trong một số đại học (ĐHBK Hà Nội, ĐHBK Tp Hồ Chí Minh…), hay không những mà còn hành lang pháp lý cho việc ra đời những doanh nghiệp khoa học công nghệ (KHCN) tại trường ĐH đã được đề cập rõ nét trong Dự thảo Luật Giáo dục đại học dự kiến thông qua trong năm nay.

Nút thắt nằm ở đâu?

Theo PGS.TS Tạ Hải Tùng, từ nhiều năm qua, một vài trường đại học truyền thống trong VN như: ĐH Bách khoa Hà Nội, ĐH Khoa học Tự nhiên (ĐH quốc gia Hà Nội), đại học xây dựngĐH Mỏ-Địa chất… đã thành lập các công ty với mục đích là hỗ trợ làm việc chuyển giao công nghệ.

Mặc dù thếlĩnh vực hoạt động của những doanh nghiệp này chủ yếu là trao đổi, giám sát, kiểm định, cung cấp dịch vụ trainingphát triển nguồn nhân lực đến trực tiếp sản xuất, buôn bán, thi công, trong khi hoạt động có ảnh hưởng là chuyển giao công nghệ từ thành quả nghiên cứu khoa học của chính đơn vị còn rất hạn chế.

Thêm nữalãnh đạo những trường luôn Nhìn nhận danh tiếng của đơn vị mình chiếm tỷ trọng lớn trong sự thành đạt của doanh nghiệp họ luôn ước muốn “danh tiếng” – thứ tài sản vô hình đấy được quy đổi ra một tỷ lệ sở hữu lớn trong công ty spinoff, như hiện trong con số này có thể lên tới hàng chục %.

Về bản chất, duy trì mật độ sở hữu lớn là trường đại học mong muốn đạt được phần lợi tức cao khi spinoff thành đạt (sản xuất/kinh doanh có lãi, IPO, hoặc mua bán/sáp nhập doanh nghiệp). mặc dù vậy, với công ty spinoff mật độ này không thể cao.

Thực tế, danh mục ở Úc [2] cho chúng ta thấy rằng, trung bình tỷ suất hoàn vốn từ người đầu tư cho R&D từ hoạt động licensing của những trường học chỉ ở mức 3trong số đó chỉ có 10% những trường có tỷ suất dương, mỗi trường tại nhóm này cũng chỉ thu được phí licensing của một số lượng rất hạn chế tại tổng số những phát minh mà mình sở hữu.

Theo Báo Tia sáng

 

Lên đầu trang

Bạn đang gặp vấn đề gì trong kinh doanh?