Site icon ATPCare

quỹ đầu tư mạo hiểm là gì? tìm hiểu rõ về quỹ đầu tư mạo hiểm

quỹ đầu tư mạo hiểm là gì? là một trong những từ khóa được search nhiều nhất trên google về chủ đề quỹ đầu tư mạo hiểm là gì? Trong bài viết này,atpcare.vn sẽ viết bài viết nói về quỹ đầu tư mạo hiểm là gì? tìm hiểu rõ về quỹ đầu tư mạo hiểm .

quỹ đầu tư mạo hiểm là gì? tìm hiểu rõ về quỹ đầu tư mạo hiểm.

Đầu tư mạo hiểm

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bạn có sms mới  (refresh Khoảng thời gian mới đây).

Buớc tưới chuyển hướngBước tới kiếm tìm

Đầu tư mạo hiểm (tiếng Anh: Venture capital) là việc cung cấp vốn tài chính cho các doanh nghiệp ở giai đoạn khởi động phát triển ban đầu. Quỹ đầu tư mạo hiểm làm ra tiền bằng phương pháp sở hữu cổ phần trong các doanh nghiệp, các công ty này thường có một công nghệ mới hoặc mô ảnh kinh doanh trong ngành nghề công nghiệp công nghệ cao, chẳng hạn như công nghệ sinh học, CNTT, software, vv. Các đầu tư mạo hiểm điển ảnh xảy ra sau vòng cấp vốn gieo mầm cũng giống như giống như vòng tài trợ phát triển (còn gọi là vòng chuỗi A) trong sự chú ý của việc xây dựng hoàn vốn thông qua một sự kiện được hiện thực hóa được xảy ra, chẳng hạn như IPO hoặc bán công ty. Điều quan trọng là cần note là đầu tư mạo hiểm là một hội tụ con của vốn chủ sở hữu tư nhân. vì thế toàn bộ các đầu tư mạo hiểm đều là vốn chủ sở hữu tư nhân, nhưng không hề toàn bộ vốn chủ sở hữu tư nhân đều là đầu tư mạo hiểm [1]

không những thế so với việc đầu tư chơi vơi và các tùy lựa chọn cấp vốn gieo mầm khác, đầu tư mạo hiểm là cuốn hút so với các công ty mới với lịch sử hoạt động giới hạn, quá nhỏ để huy động vốn trên đối tượng công cộng và đang k đạt đến điểm mà họ đủ nội lực đảm bảo một khoản vay ngân hàng hoặc hoàn thiện một lời đề xuất nợ. Để đổi lại với độ rủi ro cao mà nhà đầu tư mạo hiểm phải nhận khi đầu tư vào các công ty nhỏ và chưa trưởng thành, các nhà đầu tư mạo hiểm thường có được làm chủ đáng kể vào quyết định công tytuy nhiên một phần đáng kể quyền sở hữu của doanh nghiệp (và do đó giá trị).

Đầu tư mạo hiểm cũng liên quan với tạo việc làm (chiếm 21% GDP của Mỹ), [2] nền kinh tế văn hóa, và được sử dụng như một biện pháp gián tiếp cho sự đổi mới trong một ngành kinh tế hoặc vùng kinh tế. Mỗi năm có gần 2 triệu công ty được xây dựng ở Mỹ, và chỉ có 600-800 nhận được vốn đầu tư mạo hiểm. Theo Hiệp hội đầu tư mạo hiểm quốc gia 11% việc sử dụng khu vực tư nhân đến từ các công ty được đầu tư mạo hiểm và doanh thu của chúng chiếm 21% GDP của Mỹ [3].

danh mục

  • 1Lịch sử
    • 1.1nguồn gốc của vốn chủ sở hữu tư nhân hiện đại
    • 1.2Đầu tư mạo hiểm và sự phát triển của Thung lũng Silicon
      • 1.2.1Những năm 1980
      • 1.2.2Bùng nổ vốn mạo hiểm và bong bóng Internet (1995-2000)
      • 1.2.3Sụp đổ vốn tư nhân (2000-2003)
  • 2Cấp vốn mạo hiểm
    • 2.1Các công đoạn tài trợ
  • 3xem qua

Lịch sử[sửa | sửa mã gốc]

Mạo hiểm đủ nội lực được định nghĩa là một tương lai dự báo của một quá trình chuyển biến thành với một rủi ro và đầu tư được giả định đa số. Với vài ngoại lệ, vốn chủ sở hữu tư nhân trong nửa đầu của thế kỷ 20 là ngành nghề của các một mình và gia đình giàu tài nguyên. Vanderbilts, Whitneys, Rockefellers và Warburgs các nhà đầu tư đáng để ý trong các công ty tư nhân trong nửa đầu của thế kỷ này. Năm 1938, Laurance S. Rockefeller đang giúp tài trợ cho việc tạo ra Eastern Air Lines và Douglas Aircraft và gia đình Rockefeller đã nắm giữ cổ phần trong một loạt doanh nghiệp. Eric M. Warburg thành lập EM Warburg & Co vào năm 1938, mà cuối cùng sẽ trở thành Warburg Pincus, với các đầu tư trong cả LBO và đầu tư mạo hiểm.

nguồn nguồn của vốn chủ sở hữu tư nhân hiện đại[sửa | sửa mã gốc]

Trước khi chiến tranh toàn cầu thứ II, thư chuyển tiền (ban đầu được gọi là “vốn phát triển”) chủ yếu là ngành của các cá nhân và gia đình giàu tài nguyên. Nó không hề cho đến khi sau khi chiến tranh thế giới thứ II, rằng những gì được coi là ngày hôm nay để được thực sự đầu tư cổ phần tư nhân khởi đầu xuất hiện đánh dấu bằng việc thành lập hai công ty đầu tư mạo hiểm trước hết vào năm 1946: doanh nghiệp tìm hiểu và phát triển châu Mỹ. (ARDC) và J.H. Whitney & Company [4].

ARDC được thành lập bởi Georges Doriot, “cha đẻ của chủ nghĩa tư bản mạo hiểm” [5] (cựu hiệu trưởng Trường kinh doanh Harvard và là founder của INSEAD), với Ralph Flanders và Karl Compton (cựu chủ tịch của MIT), để khuyên rằng đầu tư khu vực tư nhân trong các công ty điều hành bởi những người lính trở về từ chiến tranh thế giới thứ II. ARDC của ý nghĩa vừa mới được chủ yếu là hãng đầu tư sở hữu tư nhân trước nhất được cấp vốn từ các gốc không giống hơn đối với các gia đình giàu có mặc dù nó đã có những đầu tư sự phát triển đáng chú ý. [6] ARDC được ghi nhận thành đạt to trước nhất của mình vào năm 1957 khi đầu tư 70.000 USD vào Digital Equipment Corporation (DEC), khoản đầu tư này sẽ được định giá trên 355 triệu USD khi cổ phiếu của công ty (DEC) được chào bán ra công chúng lần trước nhất trong năm 1968 (nhận lại hơn 1200 lần vốn đầu tư và % tăng trưởng hàng năm là 101%) [7].

nhân viên cũ của ARDC tiếp tục thành lập một số doanh nghiệp đầu tư mạo hiểm nổi bật trong đó có Greylock đối tác (được thành lập vào năm 1965 bởi Charlie Waite và Bill Elfers) và Morgan, Holland Ventures, tiền thân của Ventures Flagship (thành lập vào năm 1982 bởi James Morgan) [8]. ARDC liên tục đầu tư đến năm 1971 với việc nghỉ hưu của Doriot. Năm 1972, Doriot sáp nhập ARDC với Textron sau khi đã đầu tư hơn 150 công ty.

J.H. Whitney & Company được thành lập bởi John Hay Whitney và đối tác Benno Schmidt của mình. Whitney vừa mới đầu tư từ những năm 1930, bằng việc sáng lập Pioneer Pictures vào năm 1933 và mua lại 15% trong Technicolor Corporation với người anh em họ của ông là Cornelius Vanderbilt Whitney. Đầu tư nổi tiếng nhất của Whitney là trong Florida Foods Corporation. doanh nghiệp này đang tăng trưởng một bí quyết sáng tạo để phân phối dinh dưỡng cho binh lính Mỹ, mà sau này được biết đến giống như nước cam Minute Maid và vừa mới được bán cho doanh nghiệp Coca-Cola vào năm 1960. J.H. Whitney & Company tiếp tục đầu tư trong các giao dịch mua lại thừa hưởng và đã grow up 750 triệu USD cho quỹ vốn sở hữu tư nhân thứ sáu trong năm 2005.

Đầu tư mạo hiểm và sự phát triển của Thung lũng Silicon[sửa | sửa mã gốc]

Một trong những bước trước tiên hướng tới một lĩnh vực công nghiệp đầu tư mạo hiểm được cai quản chuyên nghiệp là việc thông qua Luật Đầu tư cho công ty nhỏ năm 1958. Đạo luật 1958 chính thức cho phép Hiệp hội công ty nhỏ Hoa Kỳ (SBA) cấp phép “Các công ty kinh doanh đầu tư nhỏ” (SBICs) tư nhân giúp tài trợ và cai quản các doanh nghiệp mua bán nhỏ ở Hoa Kỳ. [9]

Trong những năm 1960 và 1970, các hãng đầu tư mạo hiểm hội tụ hoạt động đầu tư chủ yếu vào các công ty bắt đầu và mở rộng. Thường thì, các công ty này đang khai thác những bước đột phá trong công nghệ điện tử, y tế, giải quyết dữ liệu. kết quả là, đầu tư mạo hiểm đến hầu như đồng nghĩa với tài trợ công nghệ. Đầu ông ty đầu tư mạo hiểm trước tiên tại West Coast là doanh nghiệp Đầu tư Draper và Johnson, được tạo dựng vào năm 1962 [10] bởi William Henry Draper III và Franklin P. Johnson, Jr. Năm 1962, Draper Bill và Paul Wythes thành lập Sutter Hill Ventures, và Pitch Johnson thành lập Asset Management Company.

người xem thường ghi nhận rằng bắt đầu doanh nghiệp trước tiên được support bởi vốn mạo hiểm là Fairchild Semiconductor (sản xuất các mạch tích hợp thương mại thiết thực đầu tiên), được thành lập năm 1959, bởi quỹ đầu tư mà sau này trở thành Venrock Associates [11]. Venrock được thành lập vào năm 1969 bởi Laurance S. Rockefeller, người con thứ tư trong sáu người con của John D. Rockefeller như là một mẹo để cho phép các người con khác của Rockefeller được tiếp xúc với các đầu tư mạo hiểm.

Đó là hình thức thông dụng trong những năm 1960 của các quỹ vốn tư nhân, vẫn còn sử dụng ngày hôm nay, nổi lên. Các hãng tư nhân được tổ chức theo dạng doanh nghiệp trách nhiệm hữu hạn để nắm giữ các đầu tư trong đó các chuyên gia đầu tư giúp sức như là partner chung còn các nhà đầu tư là các đối tác trách nhiệm hữu hạn thụ động thì thu xếp vốn. Cơ cấu bồi thường, luôn luôn còn được dùng hiện giờ, cũng xuất hiện với việc các thành viên góp vốn phải trả một khoản phí thống trị hàng năm là 1-2,5% và lãi suất thực hiện thường lên đến 20% lợi nhuận của công ty.

Sự phát triển của lĩnh vực công nghiệp đầu tư mạo hiểm được thúc đẩy bởi sự xuất hiện của các công ty đầu tư độc lập trên đường Sand Hill, khởi đầu với Kleiner, Perkins, Caufield & Byers và Sequoia Capital vào năm 1972. Được đặt tại Menlo Park, CA, Kleiner Perkins, Sequoia và các doanh nghiệp vốn sau đó liên doanh sẽ có quyền tiếp cận tới một số doanh nghiệp bán kéo có trụ sở tại Thung lũng Santa Clara cũng giống như các doanh nghiệp máy tính đầu tiên dùng thiết bị của họ và các doanh nghiệp lập trình và dịch vụ. [12]

Trong suốt những năm 1970, một group các hãng tư nhân, quy tụ chủ yếu vào các đầu tư mạo hiểm, sẽ được thành lập để rồi trở thành mô hình cho leveraged buyout và các hãng đầu tư mạo hiểm về sau này. Năm 1973, với sự tăng lên của các công ty đầu tư mạo hiểm mới, các nhà đầu tư mạo hiểm hàng đầu đang thành lập Hiệp hội Đầu tư mạo hiểm quốc gia (NVCA). NVCA được phục vụ như là group thương mại công nghiệp cho lĩnh vực công nghiệp đầu tư mạo hiểm [13]. Các hãng đầu tư mạo hiểm phải chịu sự suy giảm tạm thời trong năm 1974, khi đối tượng chứng khoán bị rơi và các nhà đầu tư cảnh giác với loại quỹ đầu tư mới này một mẹo tự nhiên.

Cũng phải đến tận năm 1978, đầu tư mạo hiểm mới có được năm trước hết tăng trưởng mạnh, khi lĩnh vực công nghiệp này tăng khoảng 750 triệu USD. Với việc thông qua các nhân sự nghỉ hưu Luật An sinh doanh thu cho người nghỉ hưu (ERISA) vào năm 1974, các quỹ hưu trí của công ty bị cấm giữ các khoản đầu tư rủi ro nhất định gồm có nhiều khoản đầu tư vào các công ty tư nhân. Năm 1978, Bộ Lao động Hoa Kỳ nới lỏng một số hạn chế ERISA, theo “quy tắc người thận trọng” [14] do vậy cho phép các quỹ hưu trí của doanh nghiệp đầu tư vào loại tài sản này và phân phối một nguồn vốn chính có sẵn cho đầu tư mạo hiểm.

Những năm 1980[sửa | sửa mã nguồn]

Những thành đạt của lĩnh vực công nghiệp đầu tư mạo hiểm trong những năm 1970 và đầu những năm 1980 (ví dụ, Digital Equipment Corporation, Apple Inc, Genentech) vừa mới tăng trưởng đến một sự tăng trưởng lớn của các công ty đầu tư mạo hiểm. Từ chỉ là một vài chục công ty lúc khởi đầu của thập kỷ này, vừa mới có hơn 650 doanh nghiệp vào cuối những năm 1980, mỗi kiếm tìm cần thiết kế tiếp “nhà chạy”. Trong khi số lượng của các công ty tăng trưởng theo cấp số nhân thì vốn được quản lý bởi các doanh nghiệp này chỉ tăng trưởng 11% từ 28 tỷ USD lên 31 tỷ USD trong suốt thập kỷ này. [15]

Sự tăng trưởng của ngành nghề công nghiệp bị cản trở bởi lợi tức giảm mạnh và các doanh nghiệp đầu tư mạo hiểm nào đó lần trước nhất khởi đầu công bố thua lỗ. không những thế để gia tăng sự cạnh tranh giữa các công ty, một số yếu tố khác tác động trở lại. thị trường cho các vụ IPO bị nguội lạnh vào giữa những năm 1980 trước khi bị vỡ sau sự sụp đổ của thị trường chứng khoán vào năm 1987 và các đại doanh nghiệp nước ngoài, đặc biệt là từ Nhật Bản và Hàn Quốc, ngập đầy các công ty với vốn đầu tư giai đoạn đầu. [15]

đáp ứng các điều kiện cải thiện, các đại công ty đã tài trợ cho các đầu tư mạo hiểm nội bộ, bao gồm General Electric và Paine Webber vừa mới bán hoặc phá sản các đơn vị đầu tư mạo hiểm này. ngoài ra, các tổ chức đầu tư mạo hiểm trong Chemical bank và Continental Illinois National ngân hàng, trong số những mọi ngườikhởi đầu chuyển sự quan tâm của họ từ việc tài trợ cho các công ty giai đoạn đầu sang các đầu tư vào các công ty trưởng thành hơn. Ngay cả founder ngành nghề công nghiệp J.H. Whitney & Company và Warburg Pincus cũng bắt đầu công cuộc chuyển biến sang các leveraged buyout và đầu tư vốn cho phát triển [15] [16] [17]

Bùng nổ vốn mạo hiểm và bong bóng Internet (1995-2000)[sửa | sửa mã gốc]

Đến cuối những năm 1980, lợi nhuận đầu tư mạo hiểm là tương đối thấp, đặc biệt là khi so với người anh em mới nổi leveraged buyout của nó, một phần do sự cạnh tranh với các công ty mới nóng, gốc cung dư thừa của các đợt IPO và thiếu kinh nghiệm của các nhà quản lý nhiều quỹ đầu tư mạo hiểm. tăng trưởng trong lĩnh vực công nghiệp đầu tư mạo hiểm vẫn còn hạn chế trong suốt những năm 1980 và nửa đầu những năm 1990 tăng trưởng từ 3 tỷ USD vào năm 1983 lên trên 4 tỷ hơn một thập kỷ sau vào năm 1994.

Sau một rúng động của các nhà cai quản đầu tư mạo hiểm, các công ty sự phát triển giới hạn hơn, bằng việc ngày càng tập kết vào refresh hoạt động tại các doanh nghiệp đầu tư theo mục lục của họ chứ không hề là liên tục đầu tư mới. kết quả là bắt đầu chuyển sang rất cuốn hútsự phát triển và cuối cùng sẽ xây dựng sự bùng nổ đầu tư mạo hiểm của những năm 1990. Cựu Giáo sư Wharton là Andrew Metrick xem 15 năm trước tiên của công nghiệp đầu tư mạo hiểm hiện đại đầu những năm 1980 như “thời gian trước sự bùng nổ” với dự báo của sự bùng nổ sẽ khởi đầu vào năm 1995 và kéo dài qua sự bùng nổ của bong bóng Internet vào năm 2000. [18]

Cuối những năm 1990 đang được một thời gian bùng nổ đầu tư mạo hiểm, giống như các doanh nghiệp trên đường Sand Hill ở Menlo Park và Thung lũng Silicon được hưởng lợi từ một sự đột biến lớn liên quan đến Internet non trẻ và công nghệ máy tính không giống. Các đợt IPO của cổ phiếu công nghệ và các công ty phát triển không giống có rất nhiều và các công ty đầu tư mạo hiểm vừa mới gặt hái lợi nhuận lớn.

Sụp đổ vốn tư nhân (2000-2003)[sửa | sửa mã gốc]

Các vụ sụp đổ thị trường Nasdaq và sụt giảm cổ phiếu công nghệ bắt đầu từ tháng 3 năm 2000 sử dụng rung chuyển hầu như toàn bộ ngành nghề công nghiệp đầu tư mạo hiểm cũng giống như việc xác định trị giá cho các công ty công nghệ mới khởi động bị tan vỡ. Trong hai năm sau đó, nhiều công ty đầu tư mạo hiểm đang bị buộc phải write-off một tỷ lệ to các khoản đầu tư của họ và nhiều quỹ vừa mới ​​bị “chết ngụp” (giá trị đầu tư của quỹ dưới số tiền đầu tư) đáng kể. Nhà đầu tư vốn mạo hiểm tìm mẹo để giảm quy mô các cam kết của họ cho các quỹ đầu tư mạo hiểm và trong nhiều trường hợp, tìm hướng dẫn dỡ bỏ các cam kết ngày nay trên từng xu đô la ở phân khúc thứ cấp. Đến giữa năm 2003, ngành nghề công nghiệp đầu tư mạo hiểm đang co lại còn khoảng một nửa mức năm 2001 của nó. không những thếthăm dò MoneyTree của PricewaterhouseCoopers cho thấy rằng tổng đầu tư vốn mạo hiểm được giữ ổn định ở mức năm 2003 qua quý hai của năm 2005.

Mặc dù các năm bùng nổ sau đó chỉ chiếm một phần nhỏ của cấp độ đỉnh cao của đầu tư mạo hiểm vừa mới đạt được trong năm 2000, chúng vẫn đại diện cho một sự gia tăng trên mức đầu tư từ năm 1980 thông qua năm 1995. Theo % tỷ lệ của GDP, đầu tư mạo hiểm chiếm 0,058% năm 1994, đạt mức 1,087% (gần 19 lần mức năm 1994) vào năm 2000 và dao động từ 0,164% đến 0,182% vào năm 2003 và 2004. Sự hồi sinh của nơi Internet theo định hướng trong năm 2004 thông qua năm 2007 đã giúp phục hồi nơi đầu tư mạo hiểm. tuy nhiênnhư là một phần trăm tỷ lệ của tổng thể phân khúc vốn chủ sở hữu tư nhân, đầu tư mạo hiểm vẫn chưa đạt đến cấp độ giữa những năm 1990, chứ chưa nói đến đỉnh điểm vào năm 2000.

Các quỹ vốn mạo hiểm, chịu trách nhiệm đối với phần đông các khối lượng gây quỹ vào năm 2000 (đỉnh cao của bong bóng dot-com), tăng chỉ 25,1 tỷ USD vào năm 2006, một sự suy giảm 2% đối với năm 2005 và giảm một hướng dẫn đáng tính từ lúc dữ dội của nó. [19]

Cấp vốn mạo hiểm[sửa | sửa mã gốc]

Đầu tư mạo hiểm thường rất tập hợp trong việc quyết định những gì để đầu tư, như nguyên tắc ngón tay cái, một quỹ đủ sức chỉ đầu tư vào một trong 400 thời cơ trình bày cho nó. Các quỹ quan tâm nhất các đầu tư mạo hiểm với tiềm năng phát triển đặc biệt cao, nhìn thấy giống như chỉ có thời cơ giống như vậy mới có cấp độ cho thu lại lợi nhuận tài chính và thoát ra sự phát triển trong khoảng thời gian yêu cầu (thường là 3-7 năm) mà đầu tư mạo hiểm đợi mong.

công ty trẻ có nhu cầu huy động vốn mạo hiểm đòi hỏi một sự hòa hợp cực kỳ hiếm, yêu cầu các phẩm chất chẳng hạn như công nghệ tiên tiến, tiềm năng cho thành công nhanh chóng, một mô ảnh kinh doanh phát triển tốt, và một đội ngũ thống trị ấn tượng. Đầu tư mạo hiểm thường từ chối 98% thời cơ trình bày cho họ [cần dẫn nguồn], phản ánh đặc điểm hiếm hoi của sự phối hợp này.

Bởi vì các đầu tư k có tính thanh khoản và yêu cầu 3-7 năm để thu hoạch, đầu tư mạo hiểm được dự kiến ​​để thực hiện chi tiết thẩm định trước khi đầu tư. Đầu tư mạo hiểm cũng được dự kiến ​​sẽ nuôi dưỡng các công ty mà họ đầu tư, để gia tăng mức độ đạt đến một giai đoạn IPO khi thẩm định giá thuận tiện. Đầu tư mạo hiểm thường support tại bốn công đoạn trong thành công của công ty: [20]

  • Phát sinh ý tưởng;
  • Khởi động;
  • Leo dốc;
  • Thoát ra

Bởi vì không có kênh niêm yết công khai, công ty tư nhân gặp gỡ các công ty đầu tư mạo hiểm và các nhà đầu tư vốn tư nhân không giống theo nhiều hướng dẫnbao gồm các giới thiệu nồng ấm từ nguồn đầu tư đáng tin cậy và các địa chỉ liên hệ mua bán khác; hội nghị nhà đầu tư và hội nghị chuyên đề; các hội nghị thượng đỉnh nơi các công ty trình bày trực tiếp trước các nhóm nhà đầu tư trong một cuộc gặp mặt đối mặt, gồm có cả một biến thể được gọi là “Mạo hiểm nhanh”, mà là như hứa hẹn cấp vốn nhanhngành nhà đầu tư quyết định trong vòng 10 phút cho dù anh/cô ta còn mong muốn có một cuộc họp kế tiếpbên cạnh đó còn có một số trực tuyến tin online mới vừa mới nổi lên để phân phối các thời cơ không giống để cung cấp các nhà đầu tư. [21]

Sự quan trọng để hoàn vốn cao này sử dụng cho tài trợ mạo hiểm là một gốc vốn đắt đối với các doanh nghiệp, và thêm vào nhất cho các công ty có yêu cầu về vốn to lên phía trước mà k thể được tài trợ bởi chọn thay thế rẻ hơn như nợ. Cái đó là phổ biến nhất là trường hợp so với tài sản vô ảnh giống như software, và sở hữu trí tuệ khác, có trị giá chưa được chứng minh. Điều này lý giải tại sao vì sao đầu tư mạo hiểm là đa dạng nhất trong công nghệ tăng trưởng nhanh và khoa học đời sống, các ngành công nghệ sinh học.

Nếu một công ty có những phẩm chất mà đầu tư mạo hiểm kiếm tìm bao gồm một kế hoạch kinh doanh vững chắc, đội ngũ quản lý tốt, đầu tư và niềm đam mê từ những founder, tiềm năng tốt để thoát khỏi đầu tư trước khi kết thúc của chu kỳ cấp vốn của họ, và hoàn vốn tối thiểu mục đích vượt quá 40% mỗi năm, nó sẽ dễ nâng vốn mạo hiểm hơn.

Các giai đoạn tài trợ[sửa | sửa mã gốc]

Thường có sáu giai đoạn của vòng tài trợ mạo hiểm được phân phối trong đầu tư mạo hiểm, tương ứng với các giai đoạn của thành công của công ty. [22]

Gieo mầm: tài trợ mức thấp cần thiết để chứng minh là một ý tưởng mới (thường được cung cấp bởi các nhà đầu tư chơi vơi”).

Khởi động: các hãng giai đoạn đầu cần tài trợ cho các chi phí liên quan đến quảng cáo và tăng trưởng sản phẩm.

Vòng thứ nhất (vòng chuỗi A): các quỹ sản xuất và bán hàng ban đầu.

Vòng thứ hai: Vốn hoạt động cho các doanh nghiệp giai đoạn đầu đã bán hàng hóa, nhưng chưa thu được doanh số.

Vòng thứ ba: Còn được gọi là tài trợ Mezzanine, đây là tiền xây dựng rộng cho một doanh nghiệp mới có doanh số.

Vòng thứ tư: Cũng được gọi là tài trợ bắc cầu, vòng 4 là dành để tài trợ cho công cuộc IPO.

Giữa vòng trước nhất và vòng thứ tư, các công ty được support bằng vốn mạo hiểm cũng đủ sức search để có “nợ mạo hiểm”. [23]

Nguồn: internet.com

Rate this post
Exit mobile version