Site icon ATPCare

Đạo đức nghề nghiệp là gì? Trao đổi về đạo đức nghề nghiệp

tải xuống 9

Đạo đức nghề nghiệp là gì là một trong những từ khóa được search nhiều nhất google về chủ đề đạo đức nghề nghiệp là gì. Trong bài viết này, các bạn hãy cùng ATPCARE.VN sẽ cùng tìm hiểu về chủ đề “Đạo đức nghề nghiệp là gì? Trao đổi về đạo đức nghề nghiệp”

Đạo đức nghề nghiệp là gì? Trao đổi về đạo đức nghề nghiệp

Đạo đức nghề nghiệp là một nhánh trong hệ thống đạo đức xã hội, là một loại đạo đức đã được thực tiễn hoá. Lương tâm nghề nghiệp là sự tự phán xét, tự ý thức về trách nhiệm đạo đức nghề nghiệp. Nghĩa vụ đạo đức nghề nghiệp & lương tâm nghề nghiệp có quan hệ mật thiết với nhau. Đánh mất ý thức về nghĩa vụ đạo đức là đánh mất ý thức về bản thân mình, làm mất chân thành và ý nghĩa làm người cũng như giá trị động lực của lao động. Do vậy, giáo dục đạo đức nghề nghiệp đó là để hình thành tư cách nghề nghiệp của mỗi chủ thể; hướng con người vươn tới những giá trị chân, thiện, mỹ tại hoạt động nghề nghiệp.

Ảnh minh họaẢnh minh họa

Mỗi con người đã chọn lựa cho bản thân một nghề nào đấy thì dù tại hoàn cảnh nào thì cũng nên hết lòng vì nghề  sống bằng nghề. Nghề không chỉ là phương tiện để sống mà còn là điều kiện, là địa bàn mà qua đómỗi cá nhân hoàn toàn có thể góp sức sức lực & trí tuệ cho cộng đồng. Khi mới 1. tuổi, tại luận văn tốt nghiệp trung học, C.Mác đã biểu hiện bản lĩnh của bản thân khi viết rằng, “nếu ta chọn một nghề trong số đó ta có thể làm việc được rất nhiều hơn cho nhân loại, thì ta không còng sống lưng dưới gánh nặng của nóbởi vì chính là sự hy sinh vì mọi người. những việc làm của ta sẽ sống một cuộc sống âm thầm nhưng mãi mãi có hiệu suất cao& trên thi hài của chúng ta sẽ nhỏ xuống những giọt nước mắt nóng bỏng của các con người cao quý”(1).

để có được thành công trong sự nghiệp cá nhânchuyển động nghề nghiệp của mỗi người tại bất cứ lĩnh vực nào cũng đều yên cầu phải có những chuẩn mực đạo đức mà ta gọi là đạo đức nghề nghiệp. Đạo đức nghề nghiệp là các quan điểm, quy tắc & tiêu chuẩn hành động đạo đức cộng đồng yên cầu phải làm theo tại chuyển động nghề nghiệp, có tính đặc trưng của nghề nghiệptrong xã hội có bao nhiêu nghề thì có bấy nhiêu thứ đạo đức nghề nghiệp. Đạo đức nghề nghiệp là đạo đức xã hội được biểu thị 1 cách đặc thù, cụ thể tại các hoạt động nghề nghiệp. Với tính cách là một dạng của đạo đức cộng đồng, nó có quan hệ chặt chẽ với đạo đức cá thể  biểu hiện thông qua đạo đức cá nhâncùng lúc đó, do liên quan với chuyển động nghề & gắn liền với một kiểu quan hệ chế tạo trong một giai đoạn lịch sử dân tộc nhất định nên đạo đức nghề nghiệp cũng mang tính giai cấp, tính dân tộc. Chẳng hạn, đạo đức nghề y (y đức) từ thời cổ đại đến nay đều có nhiều chuẩn mực chung, lấy việc cứu người làm điều thiện, nhưng người thày thuốc dưới chính sách cộng đồng chủ nghĩa nâng những giá trị đạo đức đấy lên phù hợp với đạo đức của con người xã hội chủ nghĩa. Đạo đức nghề nghiệp mang ý nghĩa giai cấp nên quan điểm về nghề nghiệp, thái độ đối với nghề nghiệp tại mỗi chính sách xã hội cũng khác nhau.

Dưới chế độ phong kiến, trong “bách nghệ” thì “vạn ban giai hạ phẩm, duy hữu độc thư cao”, nghĩa là, vinh quang thuộc về tầng lớp lao động trí óc, còn quần chúng nhân dân – người lao động chân chính, sáng làm ra các giá trị vật chất, tinh thần cho cộng đồng – thì bị coi là “dân ngu”. Nhân dân lao động do bị ảnh hưởng của đạo đức phong kiến nên cũng có nhiều quan niệm sai lầm về lao động, về nghề nghiệp. đối với cá nhân họ, học nghề, khổ luyện nghề Chưa hẳn do đòi hỏi của việc tăng trưởng nghề, cung ứng đòi hỏi của cộng đồngđáp ứng cộng đồng mà là để “vinh thân”, “phì gia”, nghĩa là, luyện nghề cho giỏi để đáp ứng cho lợi ích cá nhânchính vì như vậy, nhiều người hành nghề chỉ để thoả mãn lợi ích cá nhân của mình mà xem nhẹ, thậm chí mặc kệ cả lợi ích của người khác, của cộng đồng.

Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, như C.Mác  Ph.Ẳngghen đã nhận được xét trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản rằng, giai cấp tư sản không để lại một mối quan hệ nào khác ngoài cái lối trả tiền ngay không tình, không nghĩa; rằng, nó đã dìm những xúc động thiêng liêng của lòng sùng đạo, của nhiệt tình hiệp sĩ, của cảm tình tiểu tư sản xuống dòng nước lạnh giá của sự tính toán ích kỷ, biến những phẩm giá của con người thành một giá trị trao đổi đơn thuần. Với tư tưởng thực dụng, giai cấp tư sản xem lao động chỉ là phương tiện tạo nên sự lợi nhuận  sức lao động của giai cấp vô sản chỉ là một thứ hàng hoá mà chúng hoàn toàn có thể mua bán, đổi chác. tại xã hội đấy, nghề nghiệp làm cho giai cấp vô sản y như một bộ phận của máy móc, năng lực chuyên môn phát triển một cách què quặt  không có hứng thú với nghề. tại chuyển động bản năng của loài vật, họ cảm thấy mình là người, còn khi thao tác của con người thì thấy mình là con vật (C.Mác).

trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa, đạo đức nghề nghiệp có vai trò xã hội to lớn. Nó không chỉ một nhánh đặc sắc của khối hệ thống đạo đức cộng đồng, mà còn là một mức độ tăng trưởng đạo đức tiêu biểu, một loại đạo đức đã được thực tiễn hoá. Chẳng hạn, trong quá trình tạo đạo đức mới cộng đồng chủ nghĩa ở nước ta lúc này, mỗi thành viên cần xác định rằng sự yêu nghề, chân tình giữ chữ tín, thao tác hợp đạo lý, có hiệu quả, năng suất cao nhằm đáp ứng nhân dân, phục vụ Tổ quốc càng ngày càng hiệu quả hơn, nhiều hơn… là các tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp. trong số đó, linh hồn của đạo đức nghề nghiệp là tinh thần tận tuỵ đáp ứng nhân dân, sự trung thành với Tổ quốc xã hội chủ nghĩa được quán triệt, chi tiết cụ thể hoá  biểu lộ bằng thực tiễn ở tất cả các mặt của đạo đức nghề nghiệp.

tại cuộc đời của một con người, khoảng một nửa thời gian là hoạt động nghề nghiệp (có người gần như suốt cuộc đời). những dấu ấn (và cả những thất bại) của đời người chủ yếu được bắt nguồn từ chuyển động nghề nghiệp. vinh quang  cay đắng, danh dự  tủi nhục trong cuộc đời ít nhiều đều liên quan đến vấn đề đạo đức nghề nghiệp của mỗi con người. những con người gương mẫu, say mê tại lao động nghề nghiệp, mô phạm về mặt đạo đức luôn được cộng đồngxã hội tôn trọng & kính yêu. Tựu trung lại, lương tâm, trách nhiệm, nghĩa vụ, sự yêu – ghét, sự tốt – xấu, tính thiện – ác của mỗi người đều được biểu thị tập trung qua chuyển động nghề nghiệp.

kể tới đạo đức nghề nghiệp là phải kể tới lương tâm nghề nghiệp. Lương tâm nghề nghiệp là biểu lộ tập trung nhất của ý thức đạo đức cá thể tại thực tiễn; nó vừa là dấu hiệu vừa là thước đo sự cứng cáp của đời sống đạo đức cá nhân. Mỗi con người với nhân cách một chủ thể đạo đức đã trưởng thành lúc nào cũng thể hiện là người sống có lương tâm, mà rõ nét đặc biệt là trong chuyển động nghề nghiệp của họ. Lương tâm nghề nghiệp là ý thức trách nhiệm của chủ thể đối với hành vi của chính bản thân mình tại chuyển động nghề nghiệp, là thái độ  cách ứng xử của người làm nghề trước lợi ích của người khác, của xã hội; là sự tự phán xử về các chuyển độngcác hành động nghề nghiệp của bản thân mình. Theo Đêmôcrít – nhà triết học Hy Lạp cổ đại – lương tâm chính là sự tự hổ thẹn, nghĩa là hổ thẹn với bản thân mình. Sự hổ thẹn tạo điều kiện cho con người tránh được ý nghĩ, việc làm sai trái. Do vậy, ông cho rằng, cần phải dạy cho con người biết hổ thẹn, nhất làm hổ thẹn trước bản thân mìnhnếu làm được như vậy thì sẽ giữ vững & nâng cao được đời sống đạo đức cá thể & cộng đồngtrong hoạt động nghề nghiệp nếu chưa biết tự hổ thẹn, sẽ không nâng cao được kỹ năng tay nghề & kết quả của hoạt động nghề nghiệp không chỉ không còn tác dụngmà hoàn toàn ngược lại, còn ảnh hưởng xấu đối với xã hội. Lương tâm nghề nghiệp không hẳn là cảm hứng nhất thời, hời hợt mà là kết quả của một quá trình nhận thức sâu sắc thông qua chuyển động nghề nghiệp của một con người (hoặc của những người có cùng nghề nghiệp) đối với nhu cầu, yên cầu của cộng đồng  sự tồn tạiphát triển của nghề nghiệp.

Như chúng ta đã biết, cảm tình là yếu tố quan trọng trong quá trình chuyển hoá từ tri thức đạo đức thành hành động đạo đức đúng đắn. nếu không tồn tại cảm tình đạo đức trong sáng, lành mạnh sẽ dễ dẫn đến hành động phản đạo đức mặc dù rằng rất có thể “rất hiểu biết về đạo đức”. trong cấu tạo đạo đức, lương tâm là ý thức, là tình cảm, là sự thôi thúc phía trong đối với các chủ thể trước nghĩa vụ của mình. Lương tâm giữ tính năng tình cảm của nghĩa vụ đạo đức.

Nghĩa vụ đạo đức nghề nghiệp  lương tâm nghề nghiệp mãi mãi có mối quan hệ mật thiết với nhau. Nghĩa vụ đạo đức nghề nghiệp là trách nhiệm của người làm nghề trước xã hội & trước người khác, còn lương tâm là sự tự phán xét, tự ý thức về trách nhiệm đóvì thếcó thể nói, ý thức về nghĩa vụ đạo đức nghề nghiệp là nền tảng, là cơ sở để hình thành lương tâm nghề nghiệp của mỗi cá nhân.

tại đạo đức nghề nghiệp cũng như đạo đức nói chung, trạng thái cam đoan của lương tâm có vai trò nâng cao tính lạc quan của con người, giúp cho con người tin tưởng vào mình trong lúc hoạt động nghề nghiệp. niềm tin tưởng chính là động lực bên trong thôi thúc con người vươn tới cái thiện, cái tốt đẹp, cái cao cả; loại trừ cái xấu, cái nhỏ nhen, ty tiện nhằm khiến cho cộng đồng ngày một tốt đẹp hơn. Thật bất hạnh đối với các kẻ làm điều ác cho tất cả những người khác mà hoàn toàn không bị lương tâm cắn dứt, dằn vặt. Chẳng hạn, buôn bán gian lận, bán sản phẩm giả hoặc cậy chức, cậy quyền đẩy người khác vào đường cùng… mà “lương tâm” của các kẻ đó vẫn không phải gợn lên một chút day dứt trước tình đồng loại.

muốn giữ được đạo đức nghề nghiệp, trước hết phải giữ được lương tâm nghề nghiệp, bởi vì, làm điều ác lần đầu tiên thì lương tâm còn dằn vặt, cắn dứt nhưng điều ác được lặp lại thì lương tâm mất hútlúc đó cũng chính là thời điểm báo trước sự đổ vỡ của lòng thỏa sức tự tin, lòng tự trọng nghề nghiệp.

trong thực tiễn đạo đức, người có lương tâm tại sạch là người có khả năng tự ý thức  đánh giá được thực chất lương thiện của chính mìnhngược lại, mọi giá trị đạo đức sẽ tiêu tan khi chủ thể biến mất cảm xúc về lương tâm trước các việc làm sai trái của bản thân mình.

Để giữ gìn uy tín nghề nghiệp tại xã hộinhững người có hành động trái với lương tâm nghề nghiệp sẽ bị người chuyển động cùng nghề phê phán; đồng thời, dư luận cộng đồng sẽ lên án & thậm chí, pháp luật sẽ trừng trị. Chỉ có sự phê phán mạnh mẽ của dư luận cộng đồng, sự trừng phạt yêu thích đáng của luật pháp mới hoàn toàn có thể thức tỉnh & phục hồi được lương tâm của những người đã đánh mất nó. Khi lương tâm được thức tỉnh tại hoạt động nghề nghiệp cũng tức là nghĩa vụ đạo đức trước nghề nghiệp của chủ thể khởi đầu được khôi phục.

Nghĩa vụ đạo đức không chỉ có sự đòi hỏiđòi hỏi của xã hội đối với cá thể mà còn là nhu cầu tiến bộ  hoàn thiện của chính bản thân mỗi cá nhânchính vì như vậy, nghĩa vụ đạo đức không hẳn là sự ép buộc từ phía bên ngoài mà nó là sự gắn bó chặt chẽ với ý thức về lẽ sống, hạnh phúc  triết lý sống của mỗi con người. tại nghành nghề dịch vụ hoạt động nghề nghiệp cũng như vậy, nghĩa vụ đạo đức nghề nghiệp yên cầu mỗi người phải giải quyết một cách hài hoà giữa lợi ích cá nhân & lợi ích xã hội. Mỗi bước tiến bộ nghề nghiệp của cá thể đều gắn liền với sự tiến bộ của xã hội & sự trưởng thành và cứng cáp về mặt tư cách của mỗi ngườitrong quá trình chuyển động nghề nghiệp, mỗi cá nhân chọn lựa cho chính bản thân mình một triết lý nghề nghiệp riêng, không chỉ có không tranh chấp với lợi ích của người khác & của xã hội mà còn cung ứng những yêu cầuyên cầu của xã hộitại cộng đồng ta bây giờ, quan niệm cho rằng, “tiền Chưa hẳn là tất cả, cái quý hơn tiền chính là sự tin tưởng nơi con người & lòng tự trọng” đã biến thành lẽ sống trong hoạt động nghề nghiệp của tương đối nhiều người. đó thực sự là một giá trị đáng trân trọng tại đời sống đạo đức của cộng đồng nói chung & đạo đức nghề nghiệp nói riêng.

Chính những quan niệm đúng đán vè nghề nghiệp đã giúp mỗi chủ thể đạo đức nhận thức 1 cách sâu sắc sự thống nhất giữa lợi ích cá nhân  lợi ích cộng đồng, giữa hạnh phúc của chính mình với hạnh phúc của người khác & hạnh phúc chung của xã hộiđấy cũng chính là nguyên nhân làm cho ý thức về nghĩa vụ đạo đức được nuôi dưỡng, củng cố & tăng trưởng trong môi trường cộng đồng lành mạnh; mỗi cá nhân đều cảm thấy yêu cuộc sống, yêu lao động & nghề nghiệp của bản thânnếu mất đi ý thức về nghĩa vụ đạo đức cũng có nghĩa là đã đánh mất ý thức về bản thân mọi người, mất đi ý nghĩa sâu sắc làm người của bản thân mình & lao động nghề nghiệp cũng không còn động lực cộng đồng cao đẹp. Với sự kim chỉ nan của các giá trị đạo đức trong lao động nghề nghiệp, cái thiện được bảo vệ & cái ác bị đẩy lùi. Vượt qua toàn bộ những gian khổ trở ngại, thách thức tại cuộc sống, con người càng ngày càng có đầy đủ cơ sở để nhận thức, kiểm nghiệm  tin vào các giá trị mà nghĩa vụ đạo đức đem đếncũng chính vì vì Sao như thế mà ý thức về nghĩa vụ đạo đức được toàn bộ các thế hệ tại cộng đồng vun đắp, giữ gìn, tăng trưởnghoàn thiện  biến thành một giá trị tinh thần quý báu của dân tộc.

Khác với nghĩa vụ pháp lý là sự bắt buộc phải tuân thủ  phục tùng, nghĩa vụ đạo đức chủ yếu & trước hết là sự tự nguyện, được khởi nguồn từ cái “tâm” của chủ thể đạo đức, nghĩa là nó xuất hành, thôi thúc bởi cảm tình, trách nhiệm cá nhân trước người khác  trước cộng đồng. Thực hiện nghĩa vụ đạo đức là sự tự giác, không bị giàng buộc bởi động cơ cá thể vụ lợi. Giáo dục ý thức về nghĩa vụ đạo đức có tác dụng quan trọng đối với quá trình hình thành tư cách nghề nghiệp. chính là sự thống nhất của quá trình nhận thức  hành động thực tiễn đạo đức của mỗi cá nhân. Nó trải qua quá trình rèn luyện, phấn đấu vượt qua các cám dỗ vật chất nhỏ nhen, ích kỷ & các lợi ích tầm thường của cuộc sống hết sức đa dạng, phức tạp.

nói tới đạo đức mà không đề cập đến phạm trù cái thiện cũng chưa đủ. Đối với đạo đức nghề nghiệp, cái thiện càng có địa điểm trọng yếuchính vì, thiện là lợi ích của con người phù hợp với sự tiến bộ xã hội, là các chuyển động phấn đấu hy sinh vì con người, làm cho con người ngày càng sung sướng hơn, hòa bình hơn, hạnh phúc hơn. tại xã hội, cái thiện vừa là những giá trị hiện thực cụ thể, vừa hàm chứa các lý tưởng đạo đức cao cả nhất của con người. vì vậy, cái thiện là biểu tượng tập trung nhất, chi tiết nhất  cao quý nhất của đời sống đạo đức xã hội. Mỗi chính sách xã hội, mỗi thời đại quan niệm về cái thiện ít nhiều cũng đều có sự khác nhau, thậm chí đối lập nhau. trong một xã hội chi tiết, tuỳ theo những điều kiện khách quan, chủ quan nhất định mà mỗi cá nhân đều phải tham gia sáng xây dựng cái thiện, thắp sáng cái thiện. điều đó làm cho cái thiện luôn tồn tại & biểu thị như các giá trị tinh thần cao đẹp của con người.

Cái thiện khi nào cũng gắn bó chặt chẽ với chân lý & cái đẹp. chính vì vậy, chân, thiện, mỹ là thông tin căn bản của ý thức  hiện thực đạo đức tiến bộ. trong đạo đức nghề nghiệp, sự gắn bó của các giá trị chân, thiện, mỹ càng cần thiếtchính vì “Lao động là nghĩa vụ & quyền lợi, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc”, là nền tảng của sự tồn tại & tăng trưởng của xã hội, con người. Chúng xây dựng nên một chỉnh thể hợp thành lẽ sống, nghĩa vụ, hạnh phúc & lương tâm của con người. đấy cũng là mục đích của một nền đạo đức cộng đồng mới mà chúng ta hướng đến & xây dựng. Nghĩ việc thiện, làm việc thiện là đặc tính của ý thức & hành vi đạo đức tốt đẹp tại mỗi con người. hướng đến cái thiện, mỗi con người có điều kiện để phát huy mọi năng lực chuyên môn, trí tuệ để cống hiến cho mọi người, cho xã hội; mọi phẩm giá, mọi giá trị của con người được trân trọng, sự công bằng, lòng nhân ái được thực hiện. Cái thiện hiện thực là thiêng liêng cao quý & vì con người nhất. do đó, con người phải vì cái thiện, thu thập cái thiện để chống lại cái ác. Cái ác gây nên nỗi xấu số  sự thống khổ cho con người, phải kiên quyết tranh đấu gạt bỏ cái ác ra khỏi đời sống cộng đồng nói chung  khỏi chuyển động nghề nghiệp nói riêng.

Đạo đức là phẩm chất quan trọng của tư cách, là nền tảng để xây dựng toàn cầu tâm hồn của mỗi con người. vì thế, ở thời đại nào & ở bất cứ quốc gia nào cũng thế, việc giáo dục đạo đức nói chung  giáo dục đạo đức nghề nghiệp nói riêng là trung tâm chú ý của các cơ sở giáo dục, các tổ chức xã hội – nghề nghiệp & của toàn xã hội. Nghiên cứu về đạo đức nghề nghiệp, phát huy ý thức đạo đức nghề nghiệp là góp thêm phần làm rõ được vai trò của ý thức cộng đồng đối với sự tăng trưởng của hiện hữu cộng đồng.

Nguồn:http://philosophy.vass.gov.vn/

 

 

 

 

Rate this post
Exit mobile version